“Tôi biết ơn ông Tằng đã tha thứ cho tôi...”
Đầu tháng 12/2010, lần đầu tiên sau hơn 40 năm
thoát khỏi cái nhà tù đã tra tấn đến chết 4.000 người tù cộng sản, yêu
nước, ông Vũ Minh Tằng đã trở lại đảo Phú Quốc, thực hiện “cuộc gặp lịch
sử” với “ác quỷ” Bảy Nhu.
Viên cai ngục 40 năm trốn chạy Việc đầu tiên của tôi, khi
vừa đáp xuống sân bay Phú Quốc, là phải vượt 30km đường bụi mù, xóc nảy
để le ve lượn quanh khu vực nhà Bảy Nhu thám thính.
Điện thoại cho nhiều người quen biết Bảy Nhu mà tôi từng gặp ở An
Thới, bao giờ tôi cũng chỉ dám dò hỏi sức khỏe mọi người, hỏi “bác Nhu”
độ này bệnh thấp khớp còn hành hạ nhiều không, hoặc cái ban thờ Phật của
người đàn ông ăn chay sám hối sau nhiều năm lấy mắt cá chân, đập bánh
chè, nhổ răng hàng nghìn người tù yêu nước đó có còn không...
Lần trước, để “giáp mặt” viên cai ngục được, tôi phải nhờ một đại
tá đương chức của tỉnh đội Kiên Giang viết thư tay, giới thiệu tôi với
một người thân tín của Bảy Nhu. Giờ, tìm trên mạng Google tìm kiếm một
lần nữa, tôi không tìm được một tác giả nào viết bài và trực tiếp ghi
âm, chụp ảnh Bảy Nhu ngoài... tôi ra.
Đó lại là những bức ảnh chụp lén trong sự phản đối khá cương quyết
của một ông lão biết rất rõ mình là “quỷ sống” ở cái thời không tài nào
hiểu nổi... Trước chuyến vào Phú Quốc này, tôi đã biết tin, Bảy Nhu có
đọc bài tôi viết và rất oán thán “thằng nhà báo”, nếu bây giờ ông ta
nhận ra tôi thì sao?
Cuộc gặp gỡ nảy lửa giữa người tù và viên cai ngục tàn ác nhất trong lịch sử Việt Nam. Tiếng bước chân lao xao trên lá bạch đàn khô, chó sủa như muốn cắn
nát không gian chiều muộn, sương biển đã bắt đầu buông phủ. Căn nhà màu
hồng cô độc hiện ra giữa bạt ngàn gò đồi. Những hình ảnh nhảy múa trong
chiếc tivi giữa nhà Bảy Nhu phụt tắt.
Tôi đứng khựng lại, cả đoàn nín thở, kể như cuộc gặp gỡ sau mấy
chặng tàu bay và ôtô kia đã đổ bể ư? Theo đúng lập trình có sẵn từ nhiều
năm của Bảy Nhu, tắt tivi, tắt điện, cáo ốm, cáo vắng nhà, đi theo cửa
sau thoát vào rừng mắc võng ngủ, thế là xong.
Tôi buộc phải chuyển phương án, đứng ở cổng nhà Bảy Nhu, gọi thẳng
về Chỉ huy Biên phòng tỉnh Kiên Giang. Đồng chí Phó Chủ nhiệm Chính trị
biên phòng tỉnh gọi về cho Lưu Quang Mười, cán bộ đồn biên phòng quản lý
địa bàn Bảy Nhu sinh sống. Bộ quân phục xanh màu lá núi của Mười đứng
án ngữ trước cổng, “Bác Bảy có nhà không ạ, cháu là Mười “biên phòng”
đây!”.
Quê ở miền Bắc, tốt nghiệp ĐH Biên phòng xong, Mười được điều về
thẳng An Thới đồn trú. Suốt 10 năm qua, “thượng lá cây, hạ ngọn cỏ” ở
đất này, Mười đều thuộc lòng, anh thường phải gặp Bảy Nhu để vận động
đừng... chạy trốn người khác như thế, tội lắm.
Tư liệu, lời của hướng dẫn viên trong khu di tích lịch sử nhà tù
Phú Quốc có nói rõ: Bảy Nhu luôn lẩn tránh mọi cuộc tiếp xúc. Hồi mới đi
cải tạo về, ông Nhu sợ người ta trả thù mình vì “biển trời” tội ác
trong quá khứ, ông ta toàn gài mìn xung quanh nhà để tự bảo vệ. Ác giả
ác báo, sau này, chính người con út của ông Nhu đã vướng vào mìn đó, bị
cụt một bên chân.
Cuối cuộc gặp gỡ là sự tha thứ, cảm thông, nhưng đúng là cũng có rất nhiều căm phẫn, có khi cả hai cùng khóc, cùng cười. “Xin ông tha lỗi. Tôi như con chó săn của chúng nó ấy mà” Phải nói thật thà rằng,
trong cơn xúc động và đau đớn tột độ, nhiều cựu tù Phú Quốc “thân tàn ma
dại” vì các ngón đòn tra tấn của Bảy Nhu và đám quân cảnh đã đòi “đập
chết” Bảy Nhu cho hả giận. Nhưng, vì ông Tằng đã được “trấn an tư tưởng”
suốt dọc đường, là mình phải giữ “nhân cách của người chiến thắng”, nên
ông khá bình tĩnh.
Giọng ông Tằng như rít lên: “Ông Nhu có nhận ra tôi không? Tôi là
người bị các ông tra tấn nhiều nhất. Lúc tôi ra khỏi nhà “điều hành”,
nhìn thấy tôi, ông còn bảo: “Mày vẫn còn sống đấy hử? Chúng tao đã chuẩn
bị cỗ hậu (quan tài) để ném mày ra biển rồi mà!”.
Giọng ông Nhu run lẩy bẩy: “Tôi không nhận ra đâu. Mắt tôi bây giờ yếu và mờ lắm”.
Ông Tằng vẫn kiên nhẫn, cố bình tĩnh: “Tôi là Vũ Minh Tằng, vào tù
3.3.1967; ra tù 3.9.1973. Tôi bị quân cảnh các ông tra tấn đến “kịch
đường tàu” rồi. Đây, răng của tôi bị các ông bẻ đây (vừa nói ông Tằng
vừa móc hai hàm răng giả, chìa phom miệng toàn lợi đỏ về phía ông Nhu).
Trước tôi ở B2, tôi vẫn thường châm cứu chữa bệnh đau lưng co rút cho
ông mà. Răng này là người ta vừa làm tặng tôi đấy!”. Ông Tằng dứ dứ hai
hàm răng giả trị giá 30 triệu, trắng bóc về phía ông Nhu.
Giọng ông Nhu đanh lại: “Có, tôi nhận ra ông rồi”.
Có vẻ việc nhận ra ông Tằng làm ông Nhu mất kiểm soát rất nhiều.
Ông ta có vẻ không quên ơn người tù đã châm cứu chữa bệnh cho mình: “Ông
Tằng ơi, tôi nhớ, bấy giờ ông ở buồng giam số 13, ông là Bí thư chi bộ.
Các ông đào hầm khoét ngạch, mỗi ngày đào ra được vài xẻng đất, lại đổ
đất đi ra bìa rừng bằng cách nhét đất vào trong xô đựng xỉ than nấu
bếp. Buồng giam số 13 ở gần khu bếp ăn. Tôi nhớ rồi. Tôi xin lỗi nhé.
Đời nó là như thế, tôi cũng chỉ bị chúng nó (đế quốc và tay sai) xui
khiến và ép buộc phải làm. Đời tôi cũng như con chó săn thôi, lúc đánh
các ông, tôi như con chó săn, như cái thằng điên ấy chứ có biết gì đâu”.
Nói rồi Bảy Nhu nhỏm dậy, giơ gương mặt và hai cẳng tay lốm đốm tàn
nhang đen xám về phía ông Tằng: “Tôi đây, ông đánh bao nhiêu thì cứ
đánh”.
Nghe đến đấy, ông Tằng trong cơn căm phẫn bỗng dưng... cũng xẹp
xuống, giọng ông như rên xiết: “Bác Nhu à, bác hơn tôi chừng10 tuổi, tôi
gọi như thế cho tiện. Bác Nhu ơi, thế tại sao bác lại ác đến mức đập vỡ
đầu, đục gần hết răng, nghiền nát hai xương bánh chè ở đầu gối tôi như
thế. Nắm cơm bé và thuôn như quả chuối của người tù, sao các bác lại bắt
chúng tôi phải chấm cơm vào máu và vê lẫn phân người để ăn?”.
Riêng chuyện này thì ông Nhu phủ nhận: “Tôi khẳng định là tôi không
làm chuyện đó. Chắc lúc tôi đi vắng, mấy thằng lính nó giở trò như
vậy”. Ông Nhu thừa nhận có chuyện ở mỗi phòng tù nhân tuyệt thực đều có
cái xô đựng nước, ở đó, có khi nước uống pha lẫn phân, nước tiểu và máu
của người tù, bắt họ uống.
Chùm
răng của ông Vũ Minh Tằng, sau khi bị Bảy Nhu và đám quân cảnh nhổ, bắt
nuốt vào bụng, ông đã bới phân mình giữ lại suốt gần 40 năm. Bảy
Nhu hồi ức lại: “Ông có tài châm cứu tuyệt lắm, chữa bệnh cho tôi đỡ
lắm. Bấy giờ tôi bị đau ốm quá. Mà này, giờ về quê, ông có phát huy được
cái tay nghề đó nữa không?”. Ông Tằng nhập ngũ khi bà vợ ở nhà đang
mang thai đứa con thứ hai, ông đi biệt và không bao giờ dám tin mình còn
sống để trở về.
Ông được đào tạo y sĩ ở Viện 5 Quân y Ninh Bình từ
trước khi nhập ngũ, năm 1962. Sau này vào tù Phú Quốc, ông Tằng đã thu
gom dây sắt, xin phép đám quân cảnh để mài chúng thành những cái kim
châm cứu dài 12cm, có tới 20 cái kim như vậy, để chăm sóc sức khỏe cho
bạn tù. Riêng thượng sĩ bẻ răng Phạm Văn Nhu là trường hợp “bệnh nhân”
đặc biệt nhất của “tay kim Vũ Minh Tằng”.
“Bận sau ông quay lại, chắc tôi không còn sống nữa đâu” Tôi đã cố sức
“đạo diễn” để ông Tằng bình tĩnh lại, đừng gây ra ẩu đả, bởi hai người
đều đã ở cái tuổi gần đất xa trời. Hai ông bắt tay nhau, ngoài quà của
đoàn chúng tôi, ông Tằng thậm chí còn đột ngột rút ví tặng ông Nhu một
ít tiền (ông có phụ cấp bệnh binh) nho nhỏ, kèm theo một câu nói mà
người nghe ai cũng dễ cảm động: “Tôi có mấy đồng, để bác mua thêm một
chén thuốc dưỡng bệnh. Đời tôi với bác bây giờ có sống được cũng chỉ là
nhờ... thuốc thang mà thôi”.
Bảy Nhu bần thần nhìn mãi ra ngoài cửa: “Tôi xin lỗi
ông”, rồi quay sang giới thiệu bà vợ của mình: “Bà xã nhà tôi, năm nay
cũng sang tuổi 80, bắt đầu được lĩnh tiền dành cho người cao tuổi đấy”.
Cái
bắt tay, sự thanh thản của ông Vũ Minh Tằng và Bảy Nhu, "người của hai
chiến tuyến", sau gần 40 năm... người nọ không tin người kia là còn
sống... Ông Tằng quay ra hỏi về bà vợ hai của ông Nhu, một phụ
nữ trắng trẻo, mau mắn, nương theo địa vị của chồng để làm tiếp phẩm,
bán buôn phục vụ trong nhà tù. Ông Nhu cho biết: “Bà ấy chết rồi, tôi đi
cải tạo về thì bà ấy chết ở Kiên Giang”.
Khóc lớn, rồi lại cười lớn, hai con người tưởng như là
kẻ thù không đội trời chung kia đã nắm tay nhau. Bảy Nhu khoe với ông
Tằng bàn thờ Phật nhỏ bé ở góc tủ: “Tôi sống được nhờ ăn chay và niệm
Phật. Tôi biết ơn ông Tằng đã tha thứ cho tôi. Hôm trước còn có ông Kế
xuống gặp tôi. Ông ấy đã bị chúng tôi tra tấn, “kết án” tử hình thế mà
bây giờ vẫn còn sống. Những người dũng cảm như các ông, kể cả lúc tra
tấn các ông khi xưa, từ trong đáy lòng, tôi vẫn thấy rất nể phục đấy
chớ...”.
Nói rồi, ông Nhu lại đưa bàn tay đen sẫm toàn vết nám
tàn nhang tuổi già của mình lên vò nhàu khuôn mặt mình, lần đầu tiên
tôi thấy ông ta nức nở khóc.
Cuộc gặp kết thúc, khi mặt trời đã lặn dần xuống...
biển Tây. Bảy Nhu khoác vai ông Tằng, bảo, năm sau nếu ông quay lại,
chưa chắc tôi đã còn sống nữa đâu. Hai ông đều khóc, tiếng khóc của họ,
nó có cái gì bứt rứt lạ kỳ.
Theo Đỗ Doãn Hoàng
Lao Động